Các phương pháp điều trị bệnh Glaucoma
- Thuốc nhỏ mắt
Trong đa số trường hợp, điều trị ban đầu là thuốc nhỏ mắt.
Tuân thủ liệu trình điều trị rất quan trọng để cho kết quả tốt nhất và ngăn ngừa các tác dụng không mong muốn - nghĩa là cần theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Một số ví dụ về thuốc nhỏ mắt chữa Glaucoma:
- Các thuốc chẹn beta: những thuốc này làm giảm sản xuất thủy dịch trong mắt. Tác dụng phụ hay gặp: co thắt phế quản, rụng tóc , mệt mỏi, trầm cảm, mất trí nhớ, giảm huyết áp, và/hoặc bất lực. Bệnh nhân đang có bệnh phổi, chẳng hạn như COPD hoặc viêm phế quản, tiểu đường đang dùng insulin cần được kê loại thuốc khác. Ví dụ về các loại thuốc này bao gồm Timolol , betaxolol và metipranolol.
- Tương tự prostaglandin: thuốc này có hoạt chất tác dụng giống prostaglandin. Chúng làm tăng lượng thủy dịch thoát khỏi mắt. Đây là nhóm thuốc mới, chỉ dùng 1 lần trong ngày, có thể dùng cho các bệnh nhân mắc bệnh tim, phổi. Nhưng một số bệnh nhân có thể bị đỏ, sợ ánh sáng, phù quanh mắt, sậm màu mống mắt, nhìn mờ. Ví dụ như Travoprost (Travatan)
- Ức chế anhydrase carbonic: những chất này cũng giảm sản xuất thủy dịch trong mắt. Tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, ngứa mắt, khô miệng, thường xuyên đi tiểu, ngứa ran ở ngón tay / ngón chân, và có vị lạ trong miệng. Ví dụ như brinzolamide
- Các chất cholinergic: còn được gọi là chất co đồng tử, có tác dụng tăng thoát thủy dịch khỏi mắt. Tác dụng phụ có thể bao gồm đau trong và xung quanh mắt, giả cận thị, nghẹt mũi, rối loạn tiêu hóa, tăng tiết mồ hôi và/hoặc tiết nước bọt, nhìn mờ và đau xung quanh lông mày. Ví dụ: pilocarpine
- Thuốc cường giao cảm: làm giảm tiết thủy dịch trong mắt cùng lúc tăng lưu lượng thoát dịch ra khỏi mắt. Ví dụ dipivefrin, một hợp chất epinephrine (adrenaline). Một số trường hợp có thể bị đau và đỏ mắt. Cần báo cho bác sĩ biết nếu bạn bị bệnh tim hoặc cao huyết áp.
Nếu thuốc nhỏ mắt chưa đủ hiệu quả, bác sĩ có thể kê toa thuốc ức chế carbonic anhydrase đường uống (cetazolamid). Tác dụng phụ ít hơn nếu uống trong bữa ăn.
Phẫu thuật
Nếu thuốc không tác dụng, bệnh nhân không dung nạp thuốc, can thiệp phẫu thuật là một lựa chọn. Mục đích của phẫu thuật là giảm áp lực bên trong mắt.
Các phương pháp phẫu thuật bao gồm
- Trabeculoplasty: một chùm tia laser năng lượng cao được sử dụng để mở các kênh thoát nước bị tắc, khiến nó dễ dàng lưu thông thủy dịch để thải ra ngoài. Tuy nhiên, bệnh có thể tái phát trở lại.
- Phẫu thuật cắt bè (trabeculectomy): áp dụng khi các phương pháp trên không tác dụng. Các bác sĩ phẫu thuật tạo ra một chỗ hở ở phần tròng trắng của mắt và loại bỏ một mảnh nhỏ của lưới bè (meshwork trabecular). Điều này cho phép thủy dịch dễ dàng lưu thông qua vùng hở này.
- Đặt ống dẫn lưu: Phương pháp này đôi khi được dùng cho trẻ em hoặc những người có bệnh tăng nhãn áp thứ phát. Một ống silicone nhỏ được đưa vào mắt để giúp thoát dịch ra khỏi mắt.
Glaucoma góc đóng cấp – Đây là môt bệnh cấp cứu nhãn khoa. Bệnh nhân cần được nhỏ thuốc hạ nhãn áp ngay lập tức. Sau khi nhãn áp ổn lại, bác sĩ sẽ dùng laser tạo một lỗ nhỏ xíu trên mống mắt, cho phép thủy dịch lưu thông vào vùng lưới bè - thủ thuật này gọi là cắt mống mắt chu biên bằng laser ( laser iridotomy).
Dù chỉ một mắt tổn thương, các bác sĩ có thể quyết định điều trị cả mắt còn lại, vì bệnh tăng nhãn áp loại này thường bị cả hai mắt.